Vietnamese

Trong nửa thế kỷ qua ở các nước tư bản tiên tiến, vị thế của phụ nữ đã được cải thiện rõ rệt. Ít nhất là về mặt hình thức, họ có quyền hợp pháp như nam giới. Cũng như vậy với sự tiếp cận giáo dục và với một số sự mở rộng, đã cải thiện khả năng tiếp cận công việc của họ. Tuy nhiên, trong thế giới thuộc địa cũ nơi chứa tới hai phần ba loài người, điều này thật xa vời. Chế độ nô lệ với phụ nữ ngày nay tồi tệ hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử. Mỗi năm 500.000 phụ nữ chết vì các biến chứng phát sinh từ thai kỳ, và có lẽ hơn 200.000 người đã chết vì phá thai. Các quốc gia thuộc địa cũ chỉ dành 4 phần trăm GDP cho y tế, trung bình là 41 đô la một người, so với 1900 đô la ở các nước

...

Chủ nghĩa Marx luôn đi đầu trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Ngày 8 tháng 3 (Ngày Quốc tế Phụ nữ) là một ngày trọng đại đối với chúng tôi vì nó là biểu tượng cho cuộc đấu tranh của phụ nữ thuộc giai cấp công nhân nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản, cũng như sự áp bức và phân biệt đối xử trên toàn thế giới. Trong bài viết này, chúng tôi phác họa lên những bước đầu tiên của chủ nghĩa Marx trong cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ, ý nghĩa của cuộc cách mạng thành công đầu tiên đối với việc giải phóng phụ nữ, điều kiện của phụ nữ dưới chủ nghĩa tư bản ở các nước tiên tiến và thế giới thứ ba và trả lời câu hỏi làm cách nào tốt nhất để loại bỏ bất bình đẳng giữa nam và nữ.

Điều gì làm nên khác biệt giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa vô chính phủ? Vì sao bằng cách phân biệt hai lý thuyết này với nhau, những giá trị tương đối của chúng, xem xem một trong hai hay, sự kết hợp giữa các ý tưởng của chúng với nhau sẽ là cách tốt nhất để chống lại chủ nghĩa tư bản và nhà nước tư sản? Một quá trình đặt câu hỏi như vậy là cần thiết cho bất kỳ nhà cách mạng nào, như một nỗ lực để nắm bắt và chinh phục lý thuyết cách mạng.

Trong khi phát triển quan điểm triết học này, điểm tựa của Marx là những nhà tư tưởng vĩ đại đi trước ông nhưng ông chẳng những đã vượt xa họ trong việc phát triển thêm những ý tưởng đó mà còn cung cấp thêm những hiểu biết mới. Ông đã phát triển phép biện chứng của mình từ Hegel, nhà triết học vĩ đại người Đức. Trong bài viết này Ann Robertson ở Hoa Kỳ cung cấp một khảo sát thú vị về sự phát triển của phép biện chứng từ Hegel tới Marx.

Trong thời kỳ cổ điển của cuộc cách mạng tư sản ở Châu Âu, khoảng từ năm 1780 tới 1871, việc thành lập các quốc gia đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong việc phá vỡ sự cục bộ địa phương, đập tan tàn dư của chế độ phong kiến ​​và đặt nền tảng cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất trên nền tảng của thị trường quốc gia. Nhưng trong thời đại hiện nay, tình hình đã biến chuyển. Các phương tiện sản xuất từ ​​lâu đã vượt xa giới hạn hẹp của quốc gia. Tại thời điểm hiện tại, nhà nước dân tộc đã không còn hoàn thành bất kỳ vai trò tiến bộ nào. Thay vì phát triển các phương tiện sản xuất, nó là một sự kìm hãm to lớn đối với các phương tiện sản xuất. Điều đó được ngầm thừa nhận bởi

...

Lênin đã viết:

“Những đòi hỏi dân chủ khác nhau, bao gồm quyền tự quyết, không phải là một phần quyết định, mà chỉ là một phần nhỏ của phong trào dân chủ thế giới nói chung (nay là xã hội chủ nghĩa), trong những trường hợp cụ thể, phần này có thể mâu thuẫn với toàn bộ và nếu vậy nó phải bị từ chối. Phong trào cộng hòa ở một quốc gia có thể chỉ là công cụ trong mưu toan của giới giáo sĩ hoặc giới tài chính - quân chủ ở các quốc gia khác, nếu vậy chúng ta không được ủng hộ phong trào cụ thể này. Nhưng sẽ thật nực cười khi xóa bỏ yêu sách về một nước cộng hòa khỏi chương trình Dân chủ Xã hội Quốc tế chỉ vì thế.” (LCW, Tổng kết cuộc thảo luận về quyền tự quyết, tháng
...

“Trong khi ở các quốc gia đồng nhất về dân tộc, các cuộc cách mạng tư sản đã phát triển những xu hướng hướng tâm mạnh mẽ, thống nhất những ý tưởng để vượt qua chủ nghĩa cục bộ địa phương, như ở Pháp, hoặc vượt qua sự bất đồng quốc gia, như ở Ý và Đức thì ở các quốc gia không đồng nhất về dân tộc, như ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và Áo-Hung, cuộc cách mạng tư sản đến muộn đã giải phóng những lực lượng ly khai.” (L. Trotsky, Lịch sử Cách mạng Nga, trang 890.)

Vấn đề dân tộc có một lịch sử lâu dài trong kho vũ khí lý thuyết của chủ nghĩa Mác. Từ các tác phẩm của Marx và Engels, chúng ta có thể tìm thấy một số nhận xét rất thú vị và sâu sắc về vấn đề dân tộc. Lenin sau này cũng dựa vào những tác phẩm này để xây dựng lên lý luận kinh điển của mình về vấn đề dân tộc. Ví dụ, Marx đã xem xét rất chi tiết về vấn đề Ba Lan và Ai-len, thứ cũng chiếm sự chú ý quan trọng của phong trào công nhân châu Âu thế kỷ XIX. Thật thú vị khi thấy rằng Marx, đã tiếp cận vấn đề dân tộc không phải trên khẩu hiệu, mà là biện chứng, thay đổi vị trí của mình đối với cả hai mặt của vấn đề.

Vấn đề dân tộc - theo nghĩa là sự áp bức với các quốc gia và dân tộc thiểu số - là đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản kể từ khi ra đời cho tới nay và luôn chiếm một vị trí trung tâm trong lý thuyết Marxist. Đặc biệt trong các bài viết của mình Lenin đã đề cập đến vấn đề thiết yếu này rất chi tiết, nhờ đó mà chúng ta có được một nền tảng vững chắc để đối phó với vấn đề phức tạp và bùng nổ nhất này. Nói không ngoa rằng nếu không có sự đánh giá chính xác với vấn đề dân tộc những người Bolshevik sẽ không bao giờ thành công khi lên nắm quyền vào năm 1917. Chỉ có đặt mình lên hàng đầu của tất cả các tầng lớp xã hội bị áp bức thì giai cấp vô sản mới có thể đoàn kết quần chúng dưới ngọn cờ

...

Nghiên cứu khoa học hiện đại đã chỉ ra những điểm khác nhau về sinh lý học, thần kinh và gien giữa loài người và những tổ tiên sinh vật xa xưa. Cụ thể, người ta phát hiện thấy rằng bộ não của con người có sự khác biệt về chất trong sự phát triển của những phần khác nhau trong bộ não kiểm soát quá trình lý tính trừu tượng, hành vi xã hội và khả năng thể chất. Phát hiện này còn là bằng chứng nữa ủng hộ cách lý giải của Frederick Engels về sự tiến hoá của loài người trong cuốn tiểu luận “Vai trò của lao động trong sự biến đổi từ vườn sang người”.